Lục phủ đây không phải là lục phủ ngũ tạng nói
trong cơ thể học. Lục phủ của tướng mệnh học là sáu khu vực trên mặt con người.
Gốc của lục phủ là xương mặt, phủ có nghĩa là
kho chứa, nó gồm có hai xương hàm, khu vực lưỡng quyền, hai xương trán kể từ
giữa mắt rộng ra giữa thái dương.
Lục phủ nói thâu tóm lại là vùng ven biên của
mặt, bảo vệ cho ngũ quan, ngũ nhạc tứ độc. Ta nói mặt người có góc cạnh là nói
đến những xương cốt thuộc lục phủ.
Tướng tốt của lục phủ là đều đặn, nở nang, liên
lạc mật thiết với nhau như đà móng dằng co của nhà cửa, da thịt trên mặt lục
phủ tương xứng với xương để xương không lộ. Nếu xương lộ hoặc lệch kể như một
cái đà, một chân móng đã lìa sườn nhà, rất kỵ. Tỉ dụ: xương hàm bạnh ra, hàm
long, hàm chắp là tướng hung tử. Nếu lục phủ quá chìm, mặt thiếu góc cạnh,
người nhu nhược bần hàn vì kho chứa trống trơn.
Ngũ quan, ngũ nhạc, lục phủ gộp lại trong lời
đoán của Hứa Phụ như sau:
Đầu nhỏ là nhất cực, ít may mắn, thiếu tinh thần
tranh đấu, yếu hèn.
Trán nhỏ là nhị cực, lúc nhỏ truân chuyên.
Mắt nhỏ là tam cực, tâm địa hẹp hòi, học hành
khó đỗ đạt.
Mũi nhỏ là tứ cực, túng bấn vất vả.
Miệng nhỏ là ngũ cực, không đủ bát ăn.
Tai nhỏ quắt lại là lục cực, sống chết bất
thường, sống nay chết mai.
Lại có những câu phú rằng:
Đầu tuy lớn mà trán bạt không có góc cạnh. Mắt
tuy to mà thiếu tinh thần. Mũi tuy nở mà sống mũi yếu. Miệng tuy rộng mà nói
lắp bắp. Tai tuy đại mà không thành quách: Vẫn khốn khổ.
Đầu nhỏ mà bằng phẳng ngay ngắn. Mắt tuy nhỏ mà
sáng, thanh khiết. Mũi tuy nhỏ mà sống mũi khoẻ, sáng đẹp. Miệng tuy nhỏ mà nói
văn hoa, âm thanh dễ nghe: Không lo đói nghèo.
Phép xem tướng số phải lấy huyền diệu của con
tâm mới có thể quán triệt, gỡ những mối rối ẩn kín bên trong.
Mặt con người ta chia làm 12 cung:
1. Mệnh cung: Nằm tại giữa trán, giữa hai đầu
lông mày, còn có danh từ khác gọi là ấn đường nổi lên, sáng, mịn màng, tốt, vết
phá ám hãm xấu.
2. Tài bạch cung: Là cái mũi.
3. Huynh đệ cung: Là đôi mày.
4. Điền trạch cung: Nằm ở dưới lông mày đến mi
mắt, càng rộng rãi sáng đẹp càng nhà cao cửa rộng. Có người nghèo mà vẫn ở nhà
lớn là nhờ cung điền trạch cực đẹp, tức khí nhiều.
5. Tử tức cung: Ở dưới hai mắt, giữa quyền và
mắt, nên bằng phẳng, kỵ sâu, đen tối và có tì vết.
6. Nô bộc cung: Ở khu địa các, (hàm, cằm) lẹm,
khuyết, bạc nhược dễ bị bạn bè lừa lọc hoặc chỉ đi làm cho người khác hưởng mà
không ai làm cho mình hưởng.
7. Thê thiếp cung: Còn gọi là hiên môn nằm từ
đuôi mắt ra tóc mai đầy đặn, sáng tốt, lõm, khuyết ám xấu.
8. Tật ách cung: Gốc mũi tức sơn căn.
9. Thiên di cung: Kể từ đuôi mắt lên chân tóc
sát thái dương, nở sáng, xuất ngoại làm ăn phát đạt, thiên di cung ám hãm, xuất
ngoại cực khổ hoặc chết tha hương.
10. Quan lộc cung: Ở ấn đường cùng một chỗ với
mệnh cung.
11. Phúc đức cung: Ở trên mắt, sát thiên sương
dưới thiên di cung.
12. Còn cung thứ mười hai là toàn diện mạo, khác
với lá số nó không có cung phụ mẫu vì phụ mẫu với phúc đức là một.
Tại sao phải chia ra từng cung như thế?
Chia ra để xem một việc, tỉ dụ xem hiên môn, tức
cung thê thiếp để biết vợ chồng, xem cằm, hàm để biết bạn (hay?) là người dưới.
Chia cung rất cần thiết cho xem tướng, khí, sắc.
Tỉ dụ: khí sắc đen hiện lên ở cung tử tức báo hiệu con cái ốm đau, chết chóc
(sẽ nói ở dưới).
Nhận thức các cung đòi hỏi sự tinh tế, sai một
li đi một dặm, các cung phúc đức, thiên di dễ lẫn (xin xem hình vẽ cho cẩn
thận).